Đi và đến.
Quảng Trị "Miền đất lửa" là một trong những chiến trường khốc liệt nhất. Hai chữ “Quảng Trị” không chỉ là địa danh của một tỉnh mà đã thành một biểu tượng chung, niềm tự hào chung của người dân Việt Nam. "Miền đất lửa" đi vào lịch sử bởi lòng dũng cảm, ý chí bất khuất trước kẻ thù. Mảnh đất này với những địa danh đã trở thành Huyền thoại như: Cầu Hiền Lương vĩ tuyến 17, sông Thạch Hãn, Địa đạo Vịnh Mốc, Thành cổ Quảng Trị, Nghĩa trang Trường Sơn, Nghĩa trang liệt sĩ đường 9... là những địa chỉ đỏ trong nhiều chuyến hành hương tri ân các anh hùng liệt sỹ.
Hôm nay, trong
cái thời tiết oi bức, nắng nóng cao điểm của những ngày cuối tháng 4 đầu tháng
5, đoàn chúng tôi là các cô giáo từ trường Mầm non Mỹ Thủy hành trình vào Quảng
Trị, vào Nghĩa trang liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn, vào Thành cổ dâng hương, đến thăm
địa đạo Vịnh Mốc mà trong lòng không khỏi bồi hồi, xúc động. Chúng tôi chọn chuyến
đi này bởi đây là một cách để chúng tôi thể hiện lòng biết ơn các anh hùng liệt
sỹ đã anh dũng hi sinh cho Tổ Quốc, cho dân tộc, thể hiện niềm tự hào về truyền
thống hào hùng của dân tộc Việt Nam, biết sâu sắc hơn sự đánh đổi vật chất, con
người để dành lấy độc lập, tự do.
Nghĩa trang trường sơn - Biểu tượng
sáng ngời của tinh thần, ý chí đấu tranh giành độc lập.
Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất miền
Trung gió Lào cát trắng Quảng Bình, nhưng hôm nay mới là đầu tiên tôi được
viếng Nghĩa trang Liệt sĩ quốc gia Trường Sơn, đúng vào dịp nghỉ lễ 30/4 và
1/5. Đây
là nơi quy tập của hơn 10 nghìn hài cốt các liệt sĩ đã chiến đấu và hy sinh
trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại. Đứng trước hàng nghìn ngôi mộ cùng với bao câu
chuyện cảm động, tận đáy lòng tôi dâng lên một cảm xúc, một nỗi nghẹn ngào xen
lẫn tự hào – lòng tự hào dân tộc. Theo đoàn vào viếng và dâng hoa, chúng
tôi xếp hàng nghiêm trang trước tượng đài, ai cũng ngậm ngùi bởi đứng trước
vong linh của những anh hùng đã khuất, chúng tôi cảm thấy như đang nợ một điều
gì đó, chúng tôi chưa gắng để thực hiện được, tôi thầm nhủ với lòng mình phải
sống có trách nhiệm hơn với đất nước để không phụ lòng những người đã ngã
xuống, sẽ sống và làm những việc đúng với lương tâm, đúng với pháp luật và hơn
hết đúng với trách nhiệm của một cô giáo góp sức mình dạy dỗ đàn em thơ, góp sức
mình xây dựng quê hương nơi mình sống, nơi mình công tác ngày một tươi sáng
hơn.
Dẫu đã
được nghe nhiều về Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn nhưng đặt chân đến đây mới
thấy nơi này rộng lớn quá. Chiến tranh đã lùi xa nhưng những đau thương và
mất mát mà chiến tranh để lại vẫn chưa thể xóa nhòa. Vẫn còn đó những người vợ
mất chồng, còn đó những đứa con đau đáu đi tìm mộ cha, người mẹ mỏi mắt chờ
con, còn đó anh chị, các cháu đi tìm mộ em, bác, chú, cô, dì... Hình ảnh nghĩa
trang với bạt ngàn những ngôi mộ Liệt sĩ trải dài hun hút tưởng chừng như vô
tận. Cả khu nghĩa trang Trường Sơn là một màu trắng: màu trắng của những ngôi
mộ, của nắng, của khói hương nghi ngút càng khiến tôi không khỏi nghẹn lòng,
càng hiểu thêm về giá trị của hòa bình, của độc lập, tự do.
Phía sau
đài tưởng niệm lớn ở nghĩa trang Trường Sơn có cây bồ đề - đại diện cho đức
phật thiêng liêng - nghe nói cây mọc ở đó là nhờ gió đưa hạt đến, nó tự mọc và lớn lên, tán cây vươn
dài như những cánh tay, sum suê lá, cành lá quấn
quýt, xanh miên man như trời đất Quảng Trị vươn dài cánh tay lan tỏa tình yêu
thương, vỗ về những linh hồn ở đó. Gần đó có Đại Hồng được đặt tại tháp
chuông có khắc những dòng chữ: “Bát ngát
Trường Sơn hồn liệt sĩ/ Dạt dào Đông Hải khí anh linh/ Ba hồi chiêu mộ rung tâm
trí/ Muôn dặm non sông nặng nghĩa tình".
Có bác
cựu chiến binh khoảng 70 tuổi, bác cho biết "Bác từ ngoài bắc vào thăm
đồng đội, thăm lại chiến trường xưa, kẻo mai mốt kia tuổi già sức yếu mà không
đi được, lòng không nỡ". Nói đến đó,
bác lau vội nước mắt, rồi đến ngồi bên ngôi mộ, thắp hương, bàn tay xoa lên
thành mộ, ấm áp lắm. Chao ôi, tình đồng chí, đồng đội sao mà thiêng liêng, cao đẹp và đáng trân trọng đến
thế. Tôi chợt nhớ đến những câu thơ trong bài thơ "Đồng chí" của Nhà
thơ Chính Hữu mà tôi đã được học "Súng bên súng đầu sát bên đầu/ Đêm rét chung chăn thành đôi
tri kỷ... Áo anh rách vai/ Quần tôi có vài mảnh vá/ Miệng cười buốt giá/
Chân không giày/ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay"...
Đang thả
mình vào những câu thơ, tiếng cô giáo đi cùng đoàn nói với tôi: "Em ơi, ở
đây có bác của chị đó". Tôi hỏi "Mô chị". Chị lắc đầu "Chị
không biết ngôi nào, không có tên em nờ". Chị lặng lẽ, tôi động viên chị
"Em tin trong hư không bác chị sẽ nhìn thấy chị đó mà". Nhìn phía các
hàng bia mộ, phần lớn là liệt sĩ vô danh, tên các anh các chị đã vào sông núi,
đất trời. Các anh các chị nằm đây, nằm cạnh nhau, trải dài trên đồi núi mênh
mông, chúng tôi càng cảm nhận rõ hơn sự hy sinh lớn lao của thế hệ đi trước để
giành lại độc lập cho dân tộc, thống nhất cho non sông. Ngoài kia, nhiều anh,
nhiều chị còn ẩn mình ở rừng xanh, con sông, con suối chưa về được với gia
đình, chưa về được với quê hương, chưa về được với đồng đội. Có lẽ các anh, các
chị cũng đang mong mỏi người thân, gia đình lắm. Thương những chàng trai, cô
gái tuổi đời phơi phới từ khắp mọi miền quê trên dải đất hình chữ S, đã bỏ lại
phía sau tất cả tuổi trẻ, gia đình và người thân, tình yêu đôi lứa... để xả
thân nơi chiến trường ác liệt.
Nghĩa
trang liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn có 5 khu được tọa lạc trên những vạt đồi
bạt ngàn thuộc xã Vĩnh Trường, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Mỗi khu đều có
nhà tưởng niệm với kiến trúc phảng phất hình ảnh quê hương các vùng quê. Khu trung tâm của nghĩa trang nằm trên một ngọn đồi,
phần đài tưởng niệm làm từ đá trắng. Đường đi được lát bằng gạch, đá hoặc được
tráng bằng xi măng. Xung quanh là mộ của các liệt sĩ được xếp thành từng
thành phố, tỉnh. Xen kẽ các khu mộ chính là những cánh rừng tràn đầy màu
xanh mơm mởn, màu xanh của sự vươn lên, màu xanh của tự do, hòa bình mà chính
máu xương của các anh, các chị đã đổi lấy. Chúng tôi đến khu dành cho các liệt
sĩ ở Quảng Bình, trong hư không chỉ có tiếng gió nhẹ, tôi thầm thì "chào
các anh, các chị đồng hương", chúng tôi thành kính thắp những nén hương
lên mộ các anh, các chị, mong các chị yên nghỉ nơi vĩnh hằng.
Rời Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn với hình ảnh những ngôi
sao vàng được gắn lên những “ngôi nhà” của các anh, các chị yên nghỉ. Những
ngôi sao khôngbao giờ tắt trong lòng người dân Việt Nam, những ngôi sao sáng mãi
trên con đường Trường Sơn. Tôi nhớ về một câu hát "Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho
ta, mà hãy hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay”, câu hát
như một lời nhắc nhở chúng tôi luôn biết “sống là để yêu thương và dâng hiến”.
Hãy nhìn sự hi sinh, đánh đổi sự sống, tuổi trẻ của các anh, các chị để sống
đúng với lương tâm và trách nhiệm, sống và làm việc theo pháp luật.
Thành
cổ Quảng trị - "Thời hoa lửa"
Bước rất nhẹ trên Thành Cổ, khẽ đọc những lời thơ của nhà
thơ Phạm Đình Lân mà lòng se sắt:
Nhẹ bước chân và nói khẽ thôi
Cho
đồng đội tôi nằm yên dưới cỏ
Trời
cũng tự trong xanh và lộng gió
Dẫu
ồn ào đừng lay mạnh cành cây
Nhẹ
bước chân và nói khẽ thôi
Thành
Cổ rộng sao đồng đội tôi nằm chật
Mỗi
tấc đất là một cuộc đời có thật
Cho
hôm nay, tôi đến nghẹn ngào...
Vào
Thành cổ, trong trang phục áo dài, bước chân của chúng tôi dù rất nhẹ nhưng
lòng thì nặng trĩu. Trong hư không linh thiêng, nghe tiếng nhạc tri ân mà lòng tôi
như nghe thấy tiếng nói của hàng ngàn tuổi trẻ dội vang, thì thầm qua tiếng
gió. Nhìn thấy sức sống của tuổi xanh qua những cây xanh, tán dừa, rặng liễu,
thảm cỏ ... Trong không gian tâm linh linh thiêng ấy, chúng tôi thành kính dâng
hương, tĩnh lặng lòng mình để gửi lời cầu khấn tri ân vào trời đất.
Được nghe hướng dẫn viên giới thiệu về Quảng Trị, được xem
những chứng tích của chiến tranh. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ, Quảng Trị là một trong những chiến trường khốc liệt nhất. Khác với
Nghĩa trang Liệt sỹ Quốc gia Trường Sơn hay các nghĩa trang khác, ai nằm xuống
dù biết tên hay chưa biết tên đều có một ngôi mộ riêng. Nhưng ở Thành Cổ Quảng
Trị các anh, các chị chỉ có một ngôi mộ tập thể, một nấm mộ chung đó chính là
“Đài tưởng niệm trung tâm”. Thành cổ Quảng Trị vẫn được ví như một nghĩa trang
dù không có những nấm mồ, không có những tấm bia ghi danh tên tuổi các liệt sĩ;
Nhưng nơi đây, sau 81 ngày chiến đấu khốc liệt (từ 28/6 đến 16/9/1972), hàng
vạn chiến sĩ đã vĩnh viễn nằm lại trên mảnh đất này vì mong muốn khát khao hòa
bình, thống nhất đất nước. Lịch sử ghi lại, giữa mùa hè đỏ lửa năm 1972, cả thị
xã và Thành cổ Quảng Trị như một túi bom, 81 ngày đêm ấy, toàn bộ thị xã và tòa
Thành cổ Quảng Trị đã bị san bằng, thân xác của các chiến sĩ vì thế cũng tan
vào đất mẹ.
Bước vào trung tâm gian trưng bày truyền thống về Thành cổ là hình ảnh
“Huyền thoại Thành cổ Quảng Trị”. “Huyền thoại Thành cổ Quảng Trị” tái hiện lại
trang sử hào hùng của mảnh đất Quảng Trị anh hùng trong cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc, nhất là huyền thoại về mùa hè đỏ lửa 1972, với 81 ngày đêm bất
khuất giữ thành.
Nơi tôi đứng đây, 52 năm trước đầy máu và lửa giờ đây là
những thảm cỏ xanh rờn trải rộng, hơn bao giờ hết lòng tự hào dân tộc, tình yêu
quê hương, đất nước và những xúc cảm cứ dâng trào mãnh liệt trong chúng tôi. “Cỏ non Thành Cổ, một màu xanh
non tơ. Bình minh Thành Cổ, cỏ mềm theo gió đung đưa… Nào ai có ngờ, nơi đây
một thời máu đổ. Người vợ nào, người mẹ nào ngậm ngùi nuốt lệ, khi chồng con
không trở về. Cho tôi hôm nay vào Thành Cổ, thắp một nén nhang viếng người nằm
dưới cỏ. Cỏ xanh non tơ xin chớ vô tình với người hy sinh cho hạnh phúc quê
mình”. Từng ca từ sâu lắng và thiết tha của bài hát "Cỏ
non Thành Cổ" của nhạc sĩ Tân Huyền đưa chúng tôi về miền ký ức một thời
hoa lửa, kết nối quá khứ với hiện tại, kết nôi âm với dương như nhắc nhở mỗi
người luôn ghi nhớ và trân quý những gì mà thế hệ cha anh đã cống hiến và hy
sinh.
Đạn bom cũng đã đi qua, thời hoa lửa lùi xa trong trí nhớ.
Qua bao thăng trầm lịch sử, Thành Cổ Quảng Trị vẫn ở đó, là nhân chứng cho
những tội ác của quân thù, cũng là nhân chứng cho những nỗi đau bi thương của
cả dân tộc, mẹ mất con, con mất cha, vợ mất chồng. Để bảo vệ Thành Cổ, hàng vạn
Anh hùng, Liệt sỹ là những người con yêu quý trên khắp mọi miền Tổ quốc vì một
lý tưởng cao đẹp đó là độc lập dân tộc, thống nhất đất nước đã anh dũng ngã
xuống, đem theo tuổi thanh xuân cùng bao ước nguyện hóa thân vào lòng đất.
Xương máu của các anh đã hóa thân trong từng tấc đất, ngủ sâu trong lòng đất mẹ
Quảng Trị yêu thương.
Lắng nghe câu chuyện
của anh chiến sĩ Lê Văn Huỳnh quê ở tỉnh Thái Bình, vợ anh là chị Đặng Thị
Sương lấy nhau chỉ được 6 ngày, chưa kịp có với nhau 1 đứa con. Anh phải vào
chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị, anh đã linh cảm trước mình sẽ hi sinh khi
làm nhiệm vụ, anh đã viết thư gửi cho gia đình phòng khi anh hi sinh, nội dung
bức thư có đoạn viết:
"Mẹ kính mến,
lớn lên trong tay mẹ, từ khi còn trứng nước, chưa kịp đền đáp công ơn của mẹ,
đứa con út của mẹ đã phải đi thăm bố con rồi. Thư này tới tay mẹ, chắc mẹ buồn
lắm. Công mang nặng đẻ đau, giọt máu đào hơn ao nước lã, lá vàng còn ở trên
cây, lá xanh rụng xuống, trời ơi hỡi trời. Con của mẹ để lại cho mẹ nỗi buồn
nhất trên đời, con hiểu đời mẹ khổ đã nhiều. Bao hi vọng nuôi con khôn lớn. Song
đất nước có chiến tranh thì mẹ ơi hãy lau nước mắt cho đời trẻ lâu, sống thật
lâu để đón mừng ngày chiến thắng, con đi mẹ ở lại trăm tuổi bạc đầu, coi như con
lúc nào con cũng ở bên mẹ, mẹ đừng buồn cho linh hồn con được thoải mái, bay
đi, đứa con đã đi xa, để lại cho mẹ bao khó nhọc. Nay con đã khôn lớn thì thôi
nhé mẹ đừng buồn, coi như con đã sống trọn đời cho tổ quốc mai sau".
Viết cho vợ có đoạn anh viết: "Em thương yêu, anh biết em sẽ không đọc nổi lá thư này, vì biết
bao nỗi buồn đè nặng lên tấm thân người con gái trẻ tuổi như em. Nhưng em ơi,
hãy bình tĩnh lại làm theo lời anh dặn. Còn ngày anh đi xa là ngày anh đề ở ngoài
phong bì mà anh nhờ bạn anh gửi giúp, em sẽ đọc bức thư này cho mọi người trong
gia đình nghe, cho buổi lễ truy điệu anh, anh chúc sức khỏe đến những người
quen trên quê hương, cho buổi lễ truy điệu liệt sĩ này. Thôi nhé em đừng buồn
khi được sống trong hòa bình, hãy nhớ tới lời anh. Liệu thương anh thật sự, khi
nào có điều kiện vào nam lấy hài cốt anh về. Đường đi như sau: Đi tàu vào thị
xã Quảng Trị, qua sông Thạch Hãn chính là nơi anh đã hi sinh, khi đưa hàng qua
sông. Từ thị xã qua cầu ... nếu tính xuôi theo dòng nước thì ở cuối làng, qua
đó em sẽ tìm thấy tấm bia ghi dòng chữ tên anh". Và sự thật đã diễn ra
như vậy, anh đã nằm lại tại bờ bắc sông Thạch Hãn, khi đang làm nhiệm vụ đưa
hàng qua sông cùng với 2 đồng đội của mình. Mãi đến năm 2002 hài cốt của anh đã
được tìm thấy ở huyện Triệu Phong, Quảng Trị. Hòa chung với khúc tráng ca Thành
cổ còn có sông Thạch Hãn, nơi tăng cường sức người sức của, chi viện cho Thành
cổ, thị xã Quảng Trị trong suốt 81 ngày đếm có biết bao chiến sĩ nằm lại trên
dòng sông Thạch Hãn, máu nhuộm đỏ dòng sông Thạch Hãn. "Đò lên Thạch Hãn ơi, xin chèo nhẹ/ Đáy sông
còn đó, bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi, vạch sóng nước/Vỗ yên bờ, mãi mãi ngàn
năm". (Cựu chiến binh Lê Bá Dương).
Bức thư của anh chiến sĩ Lê Văn Huỳnh, dòng sông mang tên Thạch
Hãn, Thành cổ là minh chứng cho ý chí đấu tranh chống giặc bảo vệ thành cổ, bảo
vệ từng tấc đất của quê hương, là khát vọng hòa bình, khát vọng tự do, sẵn sàng
hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nơi đây mãi mãi là những địa chỉ đỏ
giáo dục lòng yêu nước cho các thế hệ hôm nay và mai sau.
Tạm biệt Thành cổ Quảng
Trị với những xúc cảm còn nguyên vẹn, trong lòng mỗi chúng tôi - những cô giáo
của trường Mầm non Mỹ Thủy đều thầm cảm thấy tự hào vì mình là người được lựa
chọn trong chuyến đi này.
Địa Đạo Vịnh Mốc - Công trình kỳ vĩ
trong lòng đất.
Lướt màn hình điện thoại, vào
facebook anh Huy Nguyễn theo dõi thời tiết,
Hôm nay, Quảng Trị như đỏ như một lò than, nhiệt độ lúc này hơn 42 độ,
nhiều chị em hơi e ngại vì nắng, nóng. Nhưng được sự động viên của đ/c bí thư
chi bộ Nguyễn Thị Hương chúng tôi tiếp tục lên đường đến với địa đạo Vịnh Mốc.
Chiến tranh đã đi qua nhưng ký ức vang
vọng nơi đây một thời kỳ oanh liệt của dân tộc Việt Nam. Địa đạo Vịnh Mộc - Di
tích lịch sử văn hóa mang nhiều giá trị lịch sử, một công trình kỳ vĩ dưới lòng
đất. Được biết, địa đạo Vịnh Mốc thuộc
địa phận thôn Vịnh Mốc, xã Vĩnh Thạch, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Trước
sự đánh phá tàn khốc của không quân và pháo binh Mỹ, làng Vịnh Mốc, xã Vĩnh
Thạch bị tàn phá nặng nề, nhưng với tinh thần "một tấc không đi, một ly
không rời", quân và dân Vĩnh Linh lúc đó đã chuyển cuộc sống từ mặt đất
xuống lòng đất, kiến tạo một hệ thống làng hầm đồ sộ, độc đáo nhằm bám đất, bám
làng để chiến đấu.
Theo lời giới
thiệu của hướng dẫn viên dẫn đoàn tham quan: “Địa đạo Vịnh Mốc là một trong 114
địa đạo lớn nhỏ được đào trên toàn huyện Vĩnh Linh, tuy nhiên đây là công trình
tiêu biểu nhất so với 113 địa đạo khác. Địa đạo Vịnh Mốc không chỉ là nơi phòng
tránh an toàn cho hàng trăm con người mà còn là trạm trung chuyển lương thực và
vũ khí rất quan trọng cho đảo Cồn Cỏ và chiến trường miền Nam.”
Nhiệt
độ ngoài trời lúc này tầm 43 độ, trời đưng gió, nóng nực, gay gắt, đến ngột thở.
Nhưng khi bước chân vào địa đạo lại có cảm giác mát mẻ vô cùng. Lối vào địa đạo
rợp bóng những hàng tre hai bên. Những cây tre cao vút, vươn thẳng lên. Có cả
đường giao thông hào nối dài, nhưng có lẽ thời gian đã làm các rãnh hào nông
hơn so với trước. Toàn bộ đường hầm địa đạo Vịnh Mốc được chia
thành 3 tầng và được nối thông với nhau qua trục chính và 3 giếng thông hơi. Giếng
thông hơi có sâu hơn các tầng hầm, theo tài liệu nhờ có giếng thông hơi mới có
đủ không khí cho địa đạo, cũng nhờ độ sâu của giếng nên địa đạo không bị ngập
nước khi mưa lũ, và cung cấp nước cho sinh hoạt trong địa đạo. Đi sâu vào lòng địa đạo, dưới ánh đèn chiếu đủ sáng,
du khách nhìn thấy rõ màu đất đỏ của vùng đất huyền thoại, thấy rõ sự phân bố khu
vực chính xác và khoa học. Đường hầm địa
đạo có dạng hình vòm, dọc hai bên đường hầm người dân cho khoét sâu vào bên
trong để tạo ra các ô nhỏ (căn hộ gia đình) đủ chỗ cho từ 2-4 người có thể sinh
hoạt trong đó. Chúng tôi, lần đầu trải nghiệm, ai cũng ngỡ ngàng, ngạc
nhiên và thán phục trước sự thông minh, sáng tạo của thế hệ trước. Những câu
nói được lặp lại không biết bao nhiêu lần "Oa, siêu quá, tài quá",
"răng hồi tê họ làm được hè", "sức nào làm cho nổi". Không thể ngờ, chỉ bằng đôi bàn tay, những con người
bình dị chất phác dùng phương tiện thô sơ nhưng đã làm nên một hệ thống phòng
tránh bom đạn và đặc biệt là có thể tránh được các loại bom hiện đại của Mỹ”...
Đến với địa đạo Vịnh Mốc để thấy rõ hơn minh chứng chân thực nhất cho những năm
tháng chiến tranh, sức sống mãnh liệt, ý chí quật cường, sự thông minh, sáng tạo
của quân và dân ta và cảm nhận được quá trình gian khổ của thế hệ đi trước,
thán phục trước ý chí kiên cường của quân và dân, thán phục trước một tinh thần
đoàn kết gắng sức gắng lòng. Tự mình chạm tay và trải nghiệm công trình kỳ vĩ
trong lòng đất để cảm nhận được
trí thông minh, sức sáng tạo không ngừng và tinh thần chiến đấu quả cảm của
quân và dân Vĩnh Linh trong những năm chiến tranh.
Chợt nghĩ, có những
lúc chúng tôi nản chí vì áp lực công việc, những khi gặp khó khăn trong cuộc
sống muốn chùn bước… thì nay chúng tôi lại muốn cố gắng nhiều hơn, muốn được
đóng góp nhiều hơn cho đơn vị, cho quê hương mình. Chúng tôi, ai cũng ý thức
vai trò trách nhiệm của mình, hăng say trong công việc, không ngừng rèn luyện
chuyên môn, đoàn kết với đồng nghiệp, cùng nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao góp phần xây dựng đơn vị vững mạnh, bảo vệ thành quả cách mạng đã được đổi
bằng xương máu của biết bao thế hệ đi trước.
Chia tay và sẽ trở lại.
Chiều
cũng đã dần buông, rời xa sự choáng ngợp trước hàng ngàn ngôi mộ ở Nghĩa trang
Trường Sơn, chia tay Thành cổ, chia tay trong tĩnh lặng của thinh không, tạm
biệt công trình độc đáo, kỳ vĩ của Vịnh Mốc, tạm biệt Miền đất lửa - Quảng Trị,
nhưng chúng tôi vẫn không quên nhẹ nhàng thầm thì cầu khấn "sức khỏe, bình
an", vì biết dưới mỗi bước chân trên con đường mình đi qua vẫn còn đó xương
thịt của những chàng trai, cô gái kiên cường, bất khuất nơi chiến trường Quảng
Trị năm xưa.
Lên xe, đoàn chúng tôi về Quảng Bình, qua ô cửa kính, màu
xanh của cây cỏ, sắc thắm của muôn hoa chạy dài theo con đường, đâu đó tiếng
chim ca, tiếng nhạc hòa vào tiếng gió và hoà thành bản hùng ca cuộc sống mới
đang tươi sắc và vươn lên. Trong lòng mỗi chúng tôi đều thầm cảm thấy tự hào vì
mình là người được lựa chọn trong chuyến đi này. Chúng tôi thầm hứa sẽ cố gắng
hơn, không nản chí, không ngại khó, ngại khổ để đi đến thành công. Dẫu biết
rằng sức của chúng tôi là nhỏ bé, là hạt cát giữa biển khơi, nhưng chúng tôi sẽ
cố gắng nhiều hơn nữa để làm đẹp thêm cho bản thân, cho làng xóm, đơn vị mình. Hẹn
một ngày chúng tôi sẽ trở lại, tri ân, ghi nhớ và báo công. Cầu chúc cho hương hồn các anh, các chị đời đời yên
nghỉ!./.
Một số hình ảnh tham quan:

Dâng hương tưởng niệm tại
Thành cổ Quảng Trị

Thành kính dâng hương trước linh hồn các anh

Đoàn chụp ảnh lưu niệm tại Nghĩa Trang Trường Sơn

Lắng nghe ký ức Thành
cổ, sông Thạch Hãn, bức thứ người chiến sĩ Lê Văn Huỳnh

Cửa số 3 địa đạo Vịnh Mốc

Lối vào địa đạo rợp bóng hàng
tre